Công nghiệp hóa là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình phát triển vì nó nâng sản xuất vật chất và đời sống văn hóa – xã hội của đất nước lên một tầm cao mới. Trong mỗi thời kỳ lịch sử, tùy theo điều kiện kinh tế – xã hội mà công nghiệp hóa có những nội dung và giai đoạn cụ thể, phù hợp.
1. Công nghiệp hóa thời kỳ trước đổi mới (1960 – 1986)
Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa bắt đầu hình thành từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (1960), với nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ ở miền Bắc nước ta là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Chủ trương chủ yếu của thời kỳ này là: “Xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp, lấy công nghiệp nặng làm gốc, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng từng bước, hợp lý, đồng thời thực hiện ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành nước có nền công nghiệp tiến bộ, nông nghiệp hiện đại.
Vì vậy, trước thời kỳ đổi mới, nước ta đã có khoảng 25 năm CNH, cần lưu ý quá trình này được chia thành 2 giai đoạn: Từ 1960 đến 1975 CNH ở miền Bắc và từ 1975 đến 1985 CNH một quy mô quốc gia.
Đặc điểm chính của thời kỳ này là công nghiệp hóa, trên cơ sở phát triển công nghiệp nặng, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp với nông nghiệp; phát triển chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên đất đai, vốn viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước và doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong thực hiện công nghiệp hóa đất đai.
Phương hướng cơ bản của giai đoạn này là phát triển theo mô hình Chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu mà nhiều nước trên thế giới (kể cả các nước xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa) đã và đang thực hiện. Có thể ước tính, hướng phát triển của Chiến lược này sẽ được duy trì trong 15 năm ở miền Bắc (1960 – 1975) và 10 năm tiếp theo trên cả nước (1976 – 1986).
Tuy nhiên, do công nghiệp hóa một nền kinh tế lạc hậu, nghèo nàn, các tiền đề cần thiết để phát triển còn hạn chế, trong điều kiện chiến tranh và nhiều nguyên nhân chủ quan khác, Việt Nam chưa đạt được mục tiêu đề ra, đất nước vẫn trong tình trạng nghèo đói. lạc hậu, kém phát triển và trong khủng hoảng kinh tế – xã hội.
Kết quả được ghi nhận trong quá trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa này là số lượng xí nghiệp công nghiệp tăng lên, một số khu công nghiệp (hay khu công nghiệp) lớn được hình thành, nhiều cơ sở công nghiệp được xây dựng. các ngành công nghiệp của đất nước như điện, than, cơ khí, luyện kim, vật liệu xây dựng, hóa chất.
2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời kỳ đổi mới (1986 đến nay)
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986): Tại Đại hội VI, sau khi tổng kết kinh nghiệm của các nền kinh tế thế giới, chúng ta từng bước xác định và thực hiện đổi mới chính sách kinh tế trên cơ sở đổi mới chính sách kinh tế và chính sách kinh tế tổng hợp. Kinh nghiệm thực tế. Giai đoạn 1986-1990 có thể coi là giai đoạn “khởi động” để phát triển kinh tế mạnh mẽ hơn. Đại hội đã thông qua đường lối đổi mới toàn diện và xác định: “Mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường thứ nhất là ổn định mọi mặt kinh tế – xã hội, tiếp tục tạo những điều kiện cần thiết để đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở nước ta từng bước tiếp theo”.
Đặc biệt, Đại hội VI đã chỉ rõ nội dung chủ yếu của giai đoạn đầu công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là thực hiện 03 chương trình lương thực và thực phẩm (1); hàng tiêu dùng (2) và hàng xuất khẩu (3) trong những năm còn lại của giai đoạn chuyển đổi đầu tiên. Ba chương trình này có quan hệ mật thiết với nhau. Phát triển lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng bảo đảm nhu cầu thiết yếu cho đời sống của các tầng lớp nhân dân, góp phần ổn định kinh tế – xã hội; Việc phát triển các mặt hàng xuất khẩu là nhân tố quyết định khuyến khích sản xuất và đầu tư trong nước, tạo nguồn thu ngoại tệ để nhập khẩu máy móc, thiết bị sản xuất. Việc ưu tiên này đã giúp phát huy nội lực và sử dụng ngoại lực cho phát triển kinh tế – xã hội.
Điểm nhấn chính của Đại hội VI là sự thay đổi trong lựa chọn mô hình chiến lược công nghiệp hóa, từ mô hình hướng nội (thay thế nhập khẩu) trước đây sang mô hình hỗn hợp (hướng vào xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu). ). được áp dụng rộng rãi và thành công ở một số nước Châu Á lúc bấy giờ.
Về công nghiệp, Quốc hội đã xây dựng chủ trương phát triển công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công nghiệp, đáp ứng nhu cầu hàng tiêu dùng, chế biến nông lâm thủy sản, hàng tăng trưởng nhanh, chế biến xuất khẩu và các mặt hàng xuất khẩu khác. Tiếp tục xây dựng hàng loạt cơ sở công nghiệp nặng, trước hết là năng lượng, theo điều kiện thực tế, trước hết phục vụ quốc phòng và kinh tế thiết thực, chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa sau này. trong giai đoạn tiếp theo.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991): Đảng ta tiếp tục có những nhận thức mới, toàn diện và sâu sắc hơn về công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa. Đại hội đề ra các dịch vụ kinh tế – kỹ thuật đáp ứng yêu cầu sản xuất, đời sống và hợp tác quốc tế; Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế vùng phù hợp với chiến lược quốc gia. Thực hiện đường lối công nghiệp hóa của Đại hội VII, nền kinh tế đã đạt bước phát triển cao hơn, chất lượng và thực chất hơn nhiều năm trước.
✅ Dịch vụ thành lập công ty | ⭕ ketoanhn cung cấp dịch vụ thành lập công ty/ thành lập doanh nghiệp trọn gói chuyên nghiệp cho khách hàng trên toàn quốc |
✅ Đăng ký giấy phép kinh doanh | ⭐ Các thủ tục bắt buộc để thể nhân và pháp nhân thực hiện hoạt động kinh doanh của mình |
✅ Dịch vụ ly hôn | ⭕ Với kinh nghiệm nhiều năm trong lĩnh vực tư vấn ly hôn, chúng tôi tin rằng có thể hỗ trợ và giúp đỡ bạn |
✅ Dịch vụ kế toán | ⭐ Với chuyên môn rất cao về kế toán và thuế, chúng tôi sẽ đảm bảo các báo cáo được lập theo đúng quy định của pháp dịch vụ |
✅ Dịch vụ kiểm toán | ⭕ Đảm bảo cung cấp chất lượng dịch vụ tốt và cung cấp các giải pháp giúp doanh nghiệp tối ưu hóa hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc các hoạt động khác. |
✅ Dịch vụ hộ chiếu | ⭕ Giúp bạn rút ngắn thời gian nhận hộ chiếu, hỗ trợ khách hàng các dịch vụ liên quan và cam kết bảo mật thông tin |